Các biến chứng phổi thường gặp sau phẫu thuật ngoài tim

dstuyetmai
·
·
IPFS
·

TÓM TẮT

Biến chứng phổi sau phẫu thuật (PPC – Post-operative pulmonary complications) xảy ra ở 5–10% bệnh nhân trải qua phẫu thuật ngoài lồng ngực và ở 22% bệnh nhân có nguy cơ cao. PPC được định nghĩa rộng rãi là các tình trạng ảnh hưởng đến đường hô hấp có thể ảnh hưởng xấu đến quá trình lâm sàng của bệnh nhân sau phẫu thuật. Phân tầng nguy cơ trước, các chiến lược giảm thiểu nguy cơ, thực hiện phẫu thuật trong thời gian ngắn và/hoặc xâm lấn tối thiểu và sử dụng kỹ thuật gây tê vùng kết hợp với gây mê toàn thân có thể làm giảm tỷ lệ mắc PPC. Xẹp phổi (atelectasis) là nguyên nhân chính gây ra PPC. Xẹp phổi có thể được ngăn ngừa hoặc điều trị bằng cách giảm đau thích hợp, tập thở phế dung khuyến khích (IS – incentive spirometry), tập thở sâu, áp lực đường thở dương liên tục, huy động dịch tiết và vận động sớm. Điều trị IS trước phẫu thuật hiệu quả hơn. Lý do chính gây viêm phổi sau phẫu thuật là do hít sặc dọc theo các kênh được hình thành bởi các nếp gấp dọc trong bóng chèn polyvinyl clorua thể tích cao, áp suất thấp của ống nội khí quản. Việc sử dụng bóng chèn thuôn nhọn, bóng chèn polyurethane và sử dụng chọn lọc thay vì sử dụng thường quy ống thông mũi dạ dày có thể làm giảm cơ hội hít sặc. Tổn thương phổi cấp tính là PPC nghiêm trọng nhất có thể gây tử vong.

GIỚI THIỆU

Biến chứng phổi sau phẫu thuật (PPC) xảy ra ở 5– 10% bệnh nhân trải qua phẫu thuật ngoài lồng ngực và ở 22% bệnh nhân có nguy cơ cao. Ngay cả trong các ca phẫu thuật nhỏ, tỷ lệ mắc bệnh có thể là 1– 2%. Có đến một phần tư số ca tử vong xảy ra trong vòng một tuần sau phẫu thuật có liên quan đến biến chứng phổi, do đó khiến nó trở thành bệnh nghiêm trọng phổ biến thứ hai sau biến cố tim mạch.[1] Có sự khác biệt lớn về tỷ lệ mắc PPC từ 2% đến 40 %.[2] Điều này chủ yếu là do thiếu sự thống nhất về việc đưa các tình trạng nội khoa vào PPC.

Định nghĩa

Có nhiều định nghĩa khác nhau có sẵn trong tài liệu:

  1. Các biến chứng hô hấp xảy ra trong vòng 48– 72 giờ sau phẫu thuật [3]

  2. Các tình trạng ảnh hưởng đến đường hô hấp có thể ảnh hưởng xấu đến quá trình lâm sàng của bệnh nhân sau phẫu thuật [4]

  3. Bất kỳ bất thường phổi nào xảy ra trong giai đoạn hậu phẫu tạo ra bệnh hoặc rối loạn chức năng có thể xác định được có ý nghĩa lâm sàng và ảnh hưởng xấu đến quá trình lâm sàng.

Có một loạt các biến chứng phổi như sau:

  • Xẹp phổi-dẫn đến giảm oxy máu sau phẫu thuật (biến chứng phổ biến nhất)

  • Viêm phổi, viêm phế quản

  • Co thắt phế quản

  • Đợt cấp của bệnh phổi trước đó

  • Xẹp phổi do chất nhầy bịt kín đường thở

  • Suy hô hấp với hỗ trợ thở máy > 48 giờ

  • Tổn thương phổi cấp tính (ALI – acute lung injury) bao gồm viêm phổi do hít, ALI liên quan đến truyền máu (TRALI – transfusion-related ALI) và hội chứng suy hô hấp cấp tính (ARDS – acute respiratory distress syndrome)

  • Thuyên tắc phổi.

Xem đầy đủ tại đây: https://nhathuocngocanh.com/bien-chung-phoi-sau-phau-thuat-ngoai-tim/

CC BY-NC-ND 4.0 授权

喜欢我的作品吗?别忘了给予支持与赞赏,让我知道在创作的路上有你陪伴,一起延续这份热忱!

dstuyetmaihttp://nhathuocngocanh.com/author/dstuyetmai Dược sĩ Tuyết Mai tốt nghiệp Học viện Quân Y, hiện nay đang công tác tại Nhà thuốc Ngọc Anh vị trí dược sĩ chuyên môn.
  • 来自作者
  • 相关推荐

Tiếp cận ngất: Kiến thức nền tảng, chẩn đoán và hướng điều trị

Viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn là gì? Chẩn đoán? Điều trị?

Quản lý thông khí cơ học trong phẫu thuật để ngăn ngừa các biến chứng hậu phẫu sau gây mê toàn thân